574. Ngoại hương: Làng ngoại, quê ngoại.

Giãi dề: Giải bày, chuyện trò.

576. Sai nha: Nha lại do quan trên sai phái đi.

577. Thước: Tay thước, một thứ võ khí cổ, bằng gỗ, dài độ một thước tây, cạnh vuông bốn góc, dùng để đánh người.

Nách thước: Nách cắp tay thước.

Đao: Dao to, mã tấu, thứ võ khí bằng sắt, lưỡi to.

579. Già: Cái gông. Giang: Khiêng đi, giải đi. ở đây nói cha con viên ngoại và Vương quan bị đóng gông lại.

583. Tế nhuyễn: Nhỏ bé, mềm mại, chỉ chung những đồ vàng ngọc quí gái và trang sức, quần áo dễ mang đi.

585. Bay buộc: ý nói cái tai vạ tự đâu bay đến, buộc vào.

586. Dậm: Một dụng cụ đánh cá.

588. Xưng xuất: Xưng ra, khai ra.

590. Loà mây: Làm mờ cả bầu trời. ý nói: một vụ hết sức oan uổng.

594. Hạ từ: Hạ lời, nói lời thanh minh để kêu cầu van xin.

Lân tuất: Thương xót, thương tình. ý cả câu: tụi sai nha cứ phủ tay đánh đập, mặc những lời kêu van của nhà Kiều, chúng chỉ làm điếc làm ngơ.

593. Rường cao: Thanh rường nhà bắc ở trên cao. Dây oan: Dây trói oan uổng. Tụi sai nha trói và treo ngược hai cha con họ Vương lên rường nhà.

599. Cốt nhục: Ruột thịt, chỉ Vương ông và Vương Quan.

600. Ngộ biến tòng quyền: Gặp cảnh biến phải theo đạo "quyền" (không thể giữ nguyên đạo "kinh" như lúc bình thường được). ý nói: Phải tuỳ theo hoàn cảnh mà xử sự cho thích hợp.

601. Hội ngộ: Gặp gỡ gắn bó nhau. Chỉ mối tình duyên giữa Kiều với Kim Trọng.

Cù lao: Công ơn sinh dưỡng khó nhọc của cha mẹ.

603. Thệ hải minh sơn: Chỉ non thề bể.

604. Sinh thành: Công ơn cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng nên người.

605. Hạ tình: Tỏ bầy ý nghĩ.

606. Rẽ cho: Lời gạt đi ý kiến những người khác để nói lên ý kiến của mình một cách kiên quyết.

607. Lại già: Người gia lại già.

608. Nha dịch: Người làm việc ở nơi gia môn, tức nơi công sở của các phủ huyện.

614. Qui liệu: Thu xếp, lo liệu.

617. Tử biệt sinh ly: Chết vĩnh biệt nhau gọi là "tử biệt", sống mà xa lìa nhau gọi là "sinh ly". Đó là hai cảnh thương tâm lớn của đời người. Tuy là hai cảnh, nhưng người ta thường dùng làm một thành ngữ, để nói chung cho người gặp cảnh "tử biệt" cũng như người gặp cảnh "sinh ly".

619. Hạt mưa: Chỉ thân phận người con gái

Ca dao:

Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng lầy.

620. Tấc cỏ, ba xuân: Do chữ tnốn thảo, tâm xuân. Thơ tả tình đi chơi xa nhớ mẹ của Mạnh Giao đời Đường có câu: Dục tương thốn thảo tâm, báo đáp tam xuân huy (Ai bảo cái lòng của ngọn cỏ một tấc (ngọn cỏ ngắn) báo đáp được ánh sáng ấm áp của ba tháng xuân). Tấc cỏ: Ví với người con. Ba xuân Ví với công ơn cha mẹ.

621. Băng nhân: Người làm mối.

622. Tin sương: Do chữ sương tín. Tin sương là ngụ ý chỉ tin tức truyền đi.

624. Viễn khách: Khách phương xa.

625. Giám sinh: Sinh viên học tại Quốc tử giám, một thứ trường đại học của triều đình phong kiến, lập ở kinh đô để đào tạo người ra làm quan.

626. Lâm thanh: Một huyện thuộc tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc).

627. Tử tuần: Bốn mươi tuổi (mỗi một tuần là mười tuổi).

630. Nỗi mình: Nỗi riêng của mình, chỉ cuộc tình duyên dở dang với Kim Trọng. Nỗi nhà: Nỗi tai vạ của toàn gia đình họ Vương.

635. Rợn gió: Sợ gió.

638. Điệu: Cách điệu, cốt cách.

644. Sinh nghi: Đồ dẫn cưới, tiền dẫn cưới.

645. Nghìn vàng: Đời hán, một nghìn vàng tức là một cân vàng, sau dùng để chỉ nghìn lạng vàng.

646. Rớp nhà: Nhà gặp lúc hoạn nạn.

649. Êm dằm: ý nói sự việc đã lo lót xong xuôi, êm thấm, giống như chiếc thuyền đã đứng êm dằm, khôn còn tròng trành nữa.

650. Canh thiếp: Lá thiếp biên tên, tuổi (nhân trong thiếp có biên tuổi, tức niên canh, nên gọi là canh thiếp). Theo hôn lễ xưa, khi bắt đầu dạm hỏi, nhà trai, nhà gái trao đổi canh thiếp của trai gái để đính ước với nhau.

651. Nạp thái: Chỉ lễ dẫn đồ cưới.

Vu qui: Về nhà chồng, chỉ lệ đón dâu.

654. Khất tử: Đơn xin (Nhà Kiều làm đơn xin tạm tha cho Vương ông).

658. Gieo cầu: Hán Vũ đế kén phò mã, cho công chúa ngồi lên lầu, ném quả cầu xuống, ai cướp được thì làm phò mã.

660. Vu thác: Vu là đổ tội cho, thác là đặt điều ra.

669. Một mảnh hồng nhan: Như nói một mụn con gái.

671. Nàng Oanh: Nàng Đề Oanh. Theo Liệt nữ truyện: Để Oanh người đời Hán, khi cha nàng là Thuấn Vu ý, phạm tội, bị hạ ngục ở Tràng An, chờ ngày hành hình, Đề Oanh dâng thư lên vua Văn đế, xin nộp mình làm giá hầu cho các nhà quan để chuộc tội cho cha, Văn đế cảm động, xuống chiếu tha cho cha nàng.

672. ả Lý: Nàng Lý Ký. Theo sách Đường dại tùng thư: Lý Ký, đời đường nhà nghèo, tự nguyện bán mình cho người làng đem cúng thần rắn, để lấy tiền nuôi cha mẹ. Về sau nàng chém chết thần rắn, rồi lấy vua Việt vương.

673. Cỗi xuân: Gốc cây xuân, chỉ người cha. Sách xưa nói: Tuổi hạc: Tuổi con chim hạc, như nói tuổi thọ. Sách xưa nói, chim hạc sống lâu một nghìn năm.

675. Lòng tơ: Tấm lòng thương con vương vấn không dứt.

676. Gió mưa: Chỉ những tai biến xảy đến.

Nước non: Chỉ cơ nghiệp nhà (nước non cũng như giang sơn).

678. Hoa dù rã cánh: Tức cây còn xanh lá, nói Vương ông được an toàn.

679. Cũng vầy: cũng vậy, cũng thế thôi.

680. Đậu: Một cái hoa kết được thành quả, hay một cái quả giữ được đến lúc chín, không bị nửa chừng rụng đi, thì người ta gọi là cái hoa đậu, cái quả đậu. Cả câu: ý nói cũng xem như là đã chết ngay từ lúc còn nhỏ tuổi.

691. Giúp vì: Giúp đỡ.

692. Lễ tâm: Lễ vật của dân sự "thành tâm" đem đút lót cho bọn quan lại. Tụng kỳ: Kỳ xử kiện, tức phiên xử án.

694. Tinh kỳ: Người ta thường dùng chữ tinh kỳ để chỉ cái ngày thành hôn, vì theo hôn lễ xưa, người ta đón dâu vào buổi tối.

697. Dầu: Cũng như nghĩa đành (dầu lòng, đành lòng).

698. Một lời: Một lời thề nguyền. ý Kiều nói: Số phận ra sao cũng đành, nhưng chỉ đau lòng là trót đeo đẳng lời thề với Kim Trọng.

703. Trời liêu: Liêu dương.

707. Tái sinh: Một kiếp sống nữa, kiếp sau cũng như nói lai sinh

Hương thề: Mảnh hương thề nguyền. Xem chú thích 517.

708. Trâu ngựa: Theo thuyết luân hồi nhà Phật: Người nào kiếp này mắc nợ ai mà chưa trả được, thì kiếp sau phải hoá làm thân trâu ngựa nhà người ta để đền trả cho xong.

Nghì: Tức là chữ "nghĩa" được đọc chệch ra.

Trúc mai: Tình nghĩa bền chặt thân thiết như vậy cây trúc, cây mai thường được trồng gần nhau.

710. Khối tình: Tình sử: Xưa có một cô gái yêu một người lái buôn. Người lái buôn đi mãi chưa về, cô ta ốm tương tư mà chết. Khi hoả táng, quả tim kết thành một khối rắn, đốt không cháy, đập không vỡ. Sau người lái buôn trở về, thương khóc, nước mắt nhỏ vào khối ấy liền tan ra thành huyết.

Tuyền đài: Nơi ở dưới suối vàng, tức nơi ở của người chết.

711. Bàn hoàn: ở đây có nghĩa là nghĩ quanh, nghĩ quẩn mãi không dứt.

713. Giấc xuân: Giấc ngủ ngon lành.

715. Cơ trời: Tức thiên cơ, máy trời.

Dâu bể: Cũng như "bể dâu".

Đa đoan: Nhiều mối nhiều việc.

717. Nhẫn: Tiếng cổ, ngồi nhẫn là ngồi mãi suốt đêm.

726. Kéo loan: do chữ loan giao, tức thứ keo chế bằng máu chim loan. Tương truyền người xưa thường dùng để nối dây đàn và dây cung.

Mối tơ thừa: Ví dây tơ tình với dây đàn, dây tơ tình bị đứt.

723. Lời non nước: Lời thề nguyền chỉ non thề bể.

734. Chín suối: Do chữ cửu tuyền, chỉ nơi suối vàng.

735. Tờ mây: Tờ giấy vẽ mây, tức tờ giấy ghi lời thề nguyền của Kim, Kiều.

740. Mảnh hương nguyền: Những manhr gỗ thơm đã đốt dở trong cuộc thề nguyền của Kim, Kiều. Thời xưa, khi thề nguyền với nhau, người ta thường đốt hương.

746. Bồ liễu: Một loại cây ưa mọc gần nước. Cây bồ liễu rụng lá sớm hơn hết các loài cây, vì cái thể chất yếu đuối đó nên trong văn cổ thường dùng để ví với người phụ nữ.

747. Dạ dài: Đài đêm tối, nghĩa bóng là cõi chết.

749. Trâm gẫy bình tan: Thơ Bạch Cư Dị, đời Đường: Bình truỵ trâm chiết thị hà như, tự thiếp kim triêu dữ quân biệt. (Cái cảnh bình rơi trâm gãy là thế nào? nó giống như cảnh biệt ly của thiếp với chàng buổi sáng nay). Đây dùng chỉ cuộc tình duyên tan vỡ.

751. Tình quân: Người tình, cũng như tình lang.

753. Phận bạc: Chính nghĩa là phận mỏng, tức bạc mệnh.

754. Nước chảy hoa trôi: Hoa rụng xuống, nước trôi đi, nguyên chỉ cảnh xuân tàn, sau thường mượn để nói sự tàn tạ của đời người.

759. Xuân huyên: Xuân đường, huyên đường, tức cha mẹ.

762. Vựng: Cơn ngất, bất tỉnh nhân sự.

Giọt hồng: Giọt nước mắt có máu, giọt lệ thảm.

769. Nói tình duyên nửa chừng bị chia lìa, tan vỡ.

772. Mòn bia đá: Chỉ một khoảng thời gian rất lâu.

Tấc vàng: Tấc lòng bền vững như vàng.

773. Chiềng: Trình, tiếng cổ.

775. Tôi đòi: Kiều bán mình làm vợ lẽ nàng tự xem như kẻ ăn người ở.

Mấy hồi: Mấy hồi trống tan canh.

780. Quân huyền: Chính nghĩa là ống trúc và dây đàn, thường dùng chỉ đàn. Đây nói họ Mã đưa các đồ âm nhạc đến đón Kiều.

782. Đại ý cả câu: Giọt lệ rơi xuống, có thể thấm qua cả đá, tơ ruột rút ra, có thể làm chết rũ cả con tằm.

785. Trú phường: Chỗ phố trọ, nhà trọ.

786. Xuân khoá: Chữ xuân ở đây không phải là mùa xuân. Chú ý: lúc Mã Giám sinh đón Kiều là mùa thu: Đêm thu một khắc một chầy.

787. Lục hồng: Màu lá xanh, màu hoa đỏ thường dùng để chỉ sắc đẹp của phụ nữ.

788. Nghĩ lòng: Nghĩ riêng trong lòng.

Đòi phen: Nhiều phen, nhiều lúc.

789. Phẩm tiên: Của trên cõi tiên. Hèn hạ, tục tằn.

790. Nắng giữ mưa gìn: ý nói giữ gìn trinh tiết một cách thận trọng.

792. Nhị đào: Hoa đào còn phong nhị ví với người con gái còn trinh.

793. Gió đông: Tiếp ý chữ nhị đào ở trên, ý nói: Không để cho người tình chung bẻ nhị đào, giống như ngăn đón gió đông không cho đến với nhị đào vậy.

795. Trùng phùng: Gặp gỡ lần thứ hai, ý nói đến sau này lại gặp Kim Trọng.

799. Yên: Cái án, một loại bàn cổ, chân cao, bề mặt hẹp và dài.